Dân ca trữ tình sinh hoạt là gì? Các công bố khoa học về Dân ca trữ tình sinh hoạt

Dân ca trữ tình sinh hoạt là một thể loại ca khúc truyền thống của dân tộc Việt Nam, thường xuất hiện trong sinh hoạt hàng ngày của người dân nông thôn. Đây là ...

Dân ca trữ tình sinh hoạt là một thể loại ca khúc truyền thống của dân tộc Việt Nam, thường xuất hiện trong sinh hoạt hàng ngày của người dân nông thôn. Đây là những bài hát thể hiện những tâm tư, tình cảm, và hằng ngày của người dân, nhấn mạnh vào cuộc sống và công việc nông nghiệp, thúc đẩy tình yêu quê hương và tình đoàn kết trong cộng đồng. Dân ca trữ tình sinh hoạt thường được truyền bá từ đời này sang đời khác thông qua việc hát và kể chuyện truyền miệng.
Dân ca trữ tình sinh hoạt được xem như một phần của văn hóa dân gian Việt Nam và thường gắn liền với cuộc sống và công việc hàng ngày của người dân nông thôn. Nó thể hiện những tình cảm, suy nghĩ, trải nghiệm và ước mơ của người dân thông qua những giai điệu và lời ca sâu lắng.

Dân ca trữ tình sinh hoạt được thể hiện qua nhiều hình thức như hát, kể chuyện, đàn, và diễn kịch. Thông thường, người truyền đi dân ca này là những nhân vật có kiến thức, kỹ năng và tình yêu đặc biệt đến âm nhạc và văn hóa dân gian. Họ là những người có khả năng truyền đạt cảm xúc và nắm bắt được tinh thần của dân ca.

Nội dung của dân ca trữ tình sinh hoạt thường xoay quanh những vấn đề thực tế và gắn kết với cuộc sống nông thôn. Đó có thể là những bài hát về công việc nông nghiệp như làm ruộng, trồng trọt, thu hoạch, chăn nuôi, hay là bài hát về đời sống gia đình, tình yêu, tình bạn, đấu tranh cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngoài ra, dân ca trữ tình sinh hoạt cũng thường thể hiện lòng yêu quê hương, nhớ nhung quê hương và tình đoàn kết trong cộng đồng.

Dân ca trữ tình sinh hoạt thường được truyền bá qua việc hát và kể chuyện truyền miệng, truyền từ đời này sang đời khác. Điều này giúp duy trì và phát triển văn hóa dân gian Việt Nam, đồng thời tạo ra một không gian âm nhạc vui tươi, cảm động và đậm chất dân tộc.
Dân ca trữ tình sinh hoạt có xuất xứ từ những vùng nông thôn của Việt Nam, nơi mà cuộc sống và công việc của người dân chủ yếu xoay quanh nông nghiệp và đời sống gia đình. Đây là một hình thức ca hát và biểu diễn truyền miệng, được truyền từ đời này sang đời khác trong cộng đồng.

Dân ca trữ tình sinh hoạt bao gồm nhiều thể loại như bài hát ru, hát lý, hát đàn độc hùng (như đàn bầu, đàn tranh, đàn nhị, đàn nguyệt...) và diễn kịch dân gian. Bài hát thường được biểu diễn bằng giọng hát vô cùng chân thật và mộc mạc, tạo ra sự gần gũi và chân thành với người nghe.

Nội dung của dân ca trữ tình sinh hoạt mang tính chất đời thường và công việc nông nghiệp, thể hiện những câu chuyện tình yêu, tình thân, tình bạn, lòng yêu quê hương, những khó khăn và vui buồn trong cuộc sống. Đôi khi, dân ca cũng thể hiện lòng trung thành và ý nghĩa đoàn kết trong cộng đồng, khích lệ mọi người sống hòa thuận và hạnh phúc.

Dân ca trữ tình sinh hoạt không chỉ là một hình thức giải trí, mà còn là cách người dân diễn đạt và truyền tải thông điệp văn hóa, truyền thống và sự đoàn kết của mình. Qua việc hát và ngâm ca, người dân có thể giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống, tạo nên sự gắn kết và nhận thức về bản sắc dân tộc.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "dân ca trữ tình sinh hoạt":

So sánh thể thơ trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Tân Trào - Tập 4 Số 8 - Trang 87-91 - 2018
Người Tày và người Thái sử dụng các thể thơ chủ đạo khác nhau khi sáng tác dân ca trữ tình sinh hoạt. Trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, thể thơ thất ngôn chiếm ưu thế. Lượn cọi, lượn then, phong slư được sáng tác theo thể thất ngôn kéo dài. Lượn slương dùng thất ngôn tứ tuyệt nên nổi bật ở tính ngắn gọn. Việc sử dụng thể thất ngôn liên quan tới những ảnh hưởng của văn hóa Kinh, Hán tới văn hóa Tày thông qua con đường sách vở, học hành.  Bên cạnh đó, người Thái sử dụng thể thơ tự do cho toàn bộ sáng tác dân ca trữ tình sinh hoạt của mình. Hai kiểu khống khái và xư bắc được sử dụng xen kẽ trong bài hát nhằm tạo sự chuyển ý, chuyển đoạn uyển chuyển. Việc sử dụng phổ biến thể thơ này có.
#Forms of poetry #folk songs #Thai people #Tay people #compare.
ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA KINH, HÁN TỚI THI PHÁP LỜI THƠ NGHỆ THUẬT CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT TÀY
Do quá trình giao lưu văn hóa, văn hóa Kinh, Hán có tác động lớn tới thi pháp lời thơ nghệ thuật của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày trên ba phương diện: ngôn ngữ, điển tích, thể thơ. Đó là sự đan xen của ngôn ngữ Tày với ngôn ngữ Việt, phần nhiều là từ Hán Việt trong lời thơ nghệ thuật. Từ đó dẫn đến việc sử dụng nhiều các điển tích có nguồn gốc Hán tộc và Việt tộc. Thể thơ chủ đạo trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày là thể thất ngôn với hai kiểu là thất thất lưu thủy và thất ngôn tứ tuyệt. Những đặc điểm này khiến cho dân ca trữ tình sinh hoạt Tày mang tính bác học, trí tuệ, gần gũi với văn học thành văn của người Kinh, Hán. Tuy thế, trong quá trình tiếp thu, người Tày đã biến cải phần nào những yếu tố ảnh hưởng. Điều đó khiến cho phần lời của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày mang vẻ đẹp vừa công phu, kiểu cách, lại vừa phù hợp với đặc điểm tâm lí tộc người.
#the influence; cultures; poetics; words in verses; romantic folk songs; the Kinh; the Han; the Tay.
So sánh thể thơ trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
Người Tày và người Thái sử dụng các thể thơ chủ đạo khác nhau khi sáng tác dân ca trữ tình sinh hoạt. Trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, thể thơ thất ngôn chiếm ưu thế. Lượn cọi, lượn then, phong slư được sáng tác theo thể thất ngôn kéo dài. Lượn slương dùng thất ngôn tứ tuyệt nên nổi bật ở tính ngắn gọn. Việc sử dụng thể thất ngôn liên quan tới những ảnh hưởng của văn hóa Kinh, Hán tới văn hóa Tày thông qua con đường sách vở, học hành. Bên cạnh đó, người Thái sử dụng thể thơ tự do cho toàn bộ sáng tác dân ca trữ tình sinh hoạt của mình. Hai kiểu khống khái và xư bắc được sử dụng xen kẽ trong bài hát nhằm tạo sự chuyển ý, chuyển đoạn uyển chuyển. Việc sử dụng phổ biến thể thơ này có nguyên nhân từ đặc trưng ngôn ngữ Thái. Sự khác nhau trong việc sử dụng thể thơ như thế chính là sự thể hiện của nhịp điệu tâm hồn riêng của từng dân tộc.
#so sánh #thể thơ #dân ca trữ tình sinh hoạt #người Tày #người Thái
So sánh thể thơ trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
Người Tày và người Thái sử dụng các thể thơ chủ đạo khác nhau khi sáng tác dân ca trữ tình sinh hoạt. Trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, thể thơ thất ngôn chiếm ưu thế. Lượn cọi, lượn then, phong slư được sáng tác theo thể thất ngôn kéo dài. Lượn slương dùng thất ngôn tứ tuyệt nên nổi bật ở tính ngắn gọn. Việc sử dụng thể thất ngôn liên quan tới những ảnh hưởng của văn hóa Kinh, Hán tới văn hóa Tày thông qua con đường sách vở, học hành.  Bên cạnh đó, người Thái sử dụng thể thơ tự do cho toàn bộ sáng tác dân ca trữ tình sinh hoạt của mình. Hai kiểu khống khái và xư bắc được sử dụng xen kẽ trong bài hát nhằm tạo sự chuyển ý, chuyển đoạn uyển chuyển. Việc sử dụng phổ biến thể thơ này có.
#Forms of poetry #folk songs #Thai people #Tay people #compare.
Các lối nói nghệ thuật tương đồng trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
Là di sản văn hóa tinh thần nổi bật của tộc người, dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái biểu đạt sâu đậm cho những điểm tương đồng giữa hai tộc người này. Xét về mặt thi pháp lời thơ nghệ thuật, một trong những điểm dễ nhận thấy là sự tương đồng về các lối nói nghệ thuật. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái đều phổ biến bốn lối nói nghệ thuật là: Hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường, cường điệu. Các lối nói nghệ thuật này được sử dụng nhiều nhất trong các loại dân ca mang tính đối đáp giao duyên như lượn cọi, lượn slương, lượn rọi, khắp báo xao, khắp hạn khuống… Sự gần gũi về việc sử dụng các lối nói nghệ thuật đó có nguyên nhân từ trình tự diễn xướng hát đối đáp và từ nhu cầu thể hiện tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình. Vì thế, nghiên cứu này có ý nghĩa mở rộng ra cả các vấn đề liên quan tới văn hóa tộc người.
#Sự tương đồng #các lối nói nghệ thuật #dân ca trữ tình sinh hoạt #người Tày #người Thái
Sự khác biệt trong diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Tân Trào - Tập 5 Số 12 - Trang 85-90 - 2019
Là những dân tộc chủ thể văn hóa vùng Đông Bắc và Tây Bắc, người Tày và người Thái có đời sống văn hóa vô cùng đặc sắc, trong đó phải kể đến các diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt. Qua so sánh, chúng tôi thấy diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái có sự khác biệt về tính tổ chức, không gian, thời gian, dạng diễn xướng theo sách, sự tham gia của vũ đạo vào diễn xướng. Từ đó, có thể thấy diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày nổi bật ở tính tổ chức, sự ổn định; diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái nổi bật ở tính tự do, sự sinh động. Những điểm khác biệt này là cơ sở để nhận thức về bản sắc văn hóa của hai dân tộc Tày, Thái.
#Difference; the choral performances; daily lyric folk; the Tay; the Thai.
Ảnh hưởng của văn hóa Kinh, Hán tới thi pháp lời thơ nghệ thuật của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Tân Trào - Tập 4 Số 9 - Trang 26-32 - 2018
Do quá trình giao lưu văn hóa Kinh, Hán, Tày, văn hóa Kinh, Hán có tác động lớn tới thi pháp lời thơ nghệ thuật của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày trên ba phương diện: Ngôn ngữ, điển tích, thể thơ. Đó là sự đan xen của ngôn ngữ Tày với ngôn ngữ Việt, phần nhiều là từ Hán – Việt trong lời thơ nghệ thuật. Từ đó dẫn đến việc sử dụng nhiều các điển tích có nguồn gốc Hán tộc và Việt tộc. Thể thơ chủ đạo trong dân ca trữ tình sinh hoạt Tày là thể thất ngôn với hai kiểu là thất thất lưu thủy và thất ngôn tứ tuyệt. Những đặc điểm này khiến cho dân ca trữ tình sinh hoạt Tày mang tính bác học, trí tuệ, gần gũi hơn với văn học thành văn của người Kinh, Hán. Tuy thế, trong quá trình tiếp thu, người Tày đã biến cải phần nào những yếu tố ảnh hưởng cho phù hợp với đặc điểm tâm lí tộc người. Điều đó khiến cho phần lời của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày mang vẻ đẹp vừa công phu, kiểu cách, lại vừa tự nhiên, bình dị.
#Affection #language #culture #romantic folk song #Kinh people #Han people #Tay people.
Sự khác biệt trong diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Tân Trào - Tập 5 Số 12 - Trang 85-90 - 2019
Là những dân tộc chủ thể văn hóa vùng Đông Bắc và Tây Bắc, người Tày và người Thái có đời sống văn hóa vô cùng đặc sắc, trong đó phải kể đến các diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt. Qua so sánh, chúng tôi thấy diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái có sự khác biệt về tính tổ chức, không gian, thời gian, dạng diễn xướng theo sách, sự tham gia của vũ đạo vào diễn xướng. Từ đó, có thể thấy diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày nổi bật ở tính tổ chức, sự ổn định; diễn xướng hát đối đáp dân ca trữ tình sinh hoạt của người Thái nổi bật ở tính tự do, sự sinh động. Những điểm khác biệt này là cơ sở để nhận thức về bản sắc văn hóa của hai dân tộc Tày, Thái.
#Difference; the choral performances; daily lyric folk; the Tay; the Thai.
Sự tương đồng về đặc điểm diễn xướng của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái
Là di sản văn hóa tinh thần của hai tộc người vốn có nhiều đặc điểm gần gũi với nhau, dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái cũng chứa đựng nhiều nét tương đồng. Xét về mặt diễn xướng, đó là sự tương đồng về trình tự diễn xướng hát đối đáp và sự tham gia của âm nhạc vào diễn xướng. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy diễn xướng dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái đều tuân theo trình tự ba chặng là chào mời – tỏ lòng – giã biệt và có sự tham gia của âm nhạc vào diễn xướng ở hai mức độ. Sự tương đồng về đặc điểm diễn xướng như vậy có nguyên nhân từ văn hóa, quy luật tâm lí chung của con người và trình độ phát triển của hai tộc người Tày, Thái.
#Sự tương đồng #diễn xướng #dân ca trữ tình sinh hoạt #người Tày #người Thái
Tổng số: 9   
  • 1